Liên hệ:Lỗi Chu (Ông.)
Điện thoại: cộng 86-551-65523315
Di động/WhatsApp: cộng 86 17705606359
Hỏi:196299583
Ứng dụng trò chuyện:lucytoday@hotmail.com
E-mail:sales@homesunshinepharma.com
Thêm vào:1002, Hoàng Mao Tòa nhà, Số 105, Mông Thành Đường, Hợp Phì Thành phố, 230061, Trung Quốc
Xcovery, một công ty con của Betta Pharma, đã công bố vào ngày 8 tháng 8 tại" Diễn đàn trực tuyến về chủ đề ung thư phổi thế giới lần thứ 21 (IASLC WCLC) (Hội nghị tổng thống ảo)" được tổ chức bởi Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư Phổi Quốc tế vào ngày 8 tháng 8. Kết quả phân tích tạm thời bom tấn của chất ức chế ALK ensartinib trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) Nghiên cứu lâm sàng giai đoạn III (eXalt3).
Đây là một nghiên cứu quốc tế, đa trung tâm, ngẫu nhiên, nhãn mở Giai đoạn III, được thực hiện ở những bệnh nhân mắc bệnh NSCLC dương tính với ALK tiến triển tại chỗ hoặc di căn, những người trước đó chưa được điều trị nhắm mục tiêu ALK (điều trị ban đầu). Kết quả cho thấy, so với nhóm điều trị bằng Xalkori (crizotinib), thời gian sống thêm không có tiến triển trung bình (mPFS) của nhóm điều trị bằng ensatinib được kéo dài đáng kể và nguy cơ bệnh tiến triển hoặc tử vong giảm đáng kể.
Tỷ lệ đột biến dương tính của gen ALK là khoảng 5-7% ở bệnh nhân NSCLC. Những bệnh nhân này thường từ 55 tuổi trở xuống, và hầu hết họ không có tiền sử hút thuốc tại thời điểm chẩn đoán. Những đột biến này sẽ trực tiếp dẫn đến sự phát triển không kiểm soát của các tế bào khối u. Xalkori là thế hệ đầu tiên của chất ức chế men ALK tyrosine (TKI) được phát triển bởi Pfizer; Ensatinib là loại thuốc ức chế ALK chọn lọc mạnh, hiệu quả cao mới, hiệu quả cao, hiệu quả cao, hiệu quả cao Là chất ức chế ALK chọn lọc thế hệ mới, hiệu lực ức chế ALK gấp 10 lần Xalkori.
Nghiên cứu eXalt3 đã thu nhận 290 bệnh nhân NSCLC dương tính với ALK, những người trước đây không được điều trị nhắm mục tiêu ALK, nhưng những bệnh nhân này trước đó được phép nhận nhiều nhất một phác đồ hóa trị. Trước khi phân loại ngẫu nhiên, bệnh nhân được phân tầng theo hóa trị trước đó, tình trạng thể chất, di căn não và khu vực địa lý. Trong nghiên cứu này, một ủy ban đánh giá độc lập bị mù (BIRC) đánh giá sự tiến triển của bệnh. Trong nghiên cứu, dân số có ý định điều trị (ITT) bao gồm 290 bệnh nhân được xác định là dương tính với ALK bằng phương pháp xét nghiệm được FDA chấp thuận tại địa phương. Dân số có ý định điều trị (mITT) đã được sửa đổi bao gồm 247 bệnh nhân đã được Trung tâm Abbott FISH xác nhận là dương tính với ALK. Mục tiêu chính của nghiên cứu là tỷ lệ sống không tiến triển (PFS) trong quần thể ITT.
Kết quả cho thấy trong dân số ITT, so với nhóm điều trị Xalkori, mPFS của nhóm điều trị Ensatinib kéo dài đáng kể (25,8 tháng so với 12,7 tháng; thời gian theo dõi trung bình là 23,8 tháng và 20,2 tháng), tiến triển của bệnh hoặc Nguy cơ tử vong giảm khoảng 50% (HR=0,51; KTC 95%: 0,35-0,72; p=0,0001). Trong quần thể mITT, hiệu quả của Ensatinib có ý nghĩa hơn: mPFS của nhóm điều trị Ensatinib chưa đạt, trong khi nhóm điều trị bằng Xalkori vẫn là 12,7 tháng (HR=0,49; KTC 95%: 0,30-0,66; p<>
Mặc dù kết quả sống sót tổng thể (OS) chưa đủ chín muồi để phân biệt sự khác biệt giữa hai nhóm, những cải tiến trong một số kết quả khác hỗ trợ kết quả điểm cuối chính.
Điều đáng chú ý là ở những bệnh nhân có di căn não có thể đo được, Ensatinib đã cho thấy hiệu quả ấn tượng. Trong 11 bệnh nhân di căn não được điều trị bằng Ensatinib, tỷ lệ đáp ứng mục tiêu nội sọ (ORR) là 64% (7/11); trong khi 19 bệnh nhân di căn não được dùng critinib có ORR nội sọ là 21% (4/19).
Ngoài ra, ở những bệnh nhân không có di căn não khi bắt đầu nghiên cứu, Ensatinib trì hoãn đáng kể thời gian điều trị thất bại ở não (di căn não) so với Xalkori (23,9 tháng so với 4,2 tháng; HR 0,32, KTC 95% 0,15-0,64; P=0,0011), tỷ lệ bệnh nhân bị di căn não ở thời điểm 12 tháng giảm đáng kể (4% so với 24%). Phân tích tỷ lệ sống sót (đường cong KM) cho thấy tại thời điểm điều trị 36 tháng, chỉ 40% bệnh nhân trong nhóm Ensatinib có tiến triển, và 75% ở nhóm Xalkori.
Trong nghiên cứu này, khả năng dung nạp của Ensatinib dường như tương đương với Xalkori, và tỷ lệ các tác dụng phụ nghiêm trọng liên quan đến điều trị (TRAE: 8% so với 6%), TRAE gây giảm liều (24% so với 20%), và TRAE gây ra tình trạng thu hồi ma túy (9% so với 7%) cũng tương tự. Tỷ lệ mắc hầu hết các TRAE là tương tự giữa hai nhóm, nhưng so với nhóm Xalkori, tỷ lệ phát ban, ngứa và ho ở nhóm Ensatinib cao hơn một chút, và tỷ lệ nôn mửa, tiêu chảy, giảm bạch cầu và giảm bạch cầu thì tỷ lệ này là một chút thấp hơn.
Kết quả cuối cùng của nghiên cứu dự kiến sẽ được công bố vào cuối năm nay và dự kiến sẽ làm rõ liệu Ensatinib có lợi thế sống sót hơn Xalkori hay không.
Giáo sư Mao Li, Phó Chủ tịch Cấp cao kiêm Giám đốc Y tế của Betta Pharmaceuticals và Giám đốc điều hành của Xcovery của Hoa Kỳ, cho biết:" Quá trình nghiên cứu và phát triển của Ensatinib là bước đầu tiên để Betta Pharmaceuticals lên" dựa trên Trung Quốc và đi ra thế giới" ;. Satinib giống như một con ngựa đen trong lĩnh vực ALK-TKI. Dữ liệu đánh giá sơ bộ BIRC đầu tiên của Ensatinib trong báo cáo này là rất tốt. Đối với những bệnh nhân không có di căn não ở thời điểm ban đầu, Ensatinib được kỳ vọng sẽ kéo dài thời gian sống thêm rất nhiều và có được mPFS chưa từng có. Dựa trên kết quả của nghiên cứu này, công ty sẽ tích cực chuẩn bị cho việc niêm yết các chỉ định đầu tiên ở Trung Quốc và Hoa Kỳ. Tôi tin rằng sau khi niêm yết thành công trong tương lai, nó sẽ tấn công tất cả các tuyến và bảo vệ toàn diện tính mạng người bệnh trong toàn bộ quản lý bệnh nhân ALK dương tính với NSCLC."